Đôi điều về tôm hùm Việt Nam
Tôm hùm là một loài tôm biển kích thước lớn và có giá trị cao về dinh dưỡng và kinh tế. Tôm hùm gồm có: các loài trong họ tôm hùm càng (Nephropidae) và các loài trong họ tôm hùm không càng hay họ tôm rồng hoặc họ tôm hùm gai (Palinuridae). Các loài tôm hùm có ở vùng biển Việt Nam thuộc họ tôm hùm không càng.
1. Tôm hùm càng
Họ tôm hùm càng (danh pháp khoa học: Nephropidae) là tên gọi dùng để chỉ một họ chứa các loài tôm hùm. Họ tôm hùm càng có đặc điểm gồm thân dài và có một cái đuôi cơ bắp, hầu hết họ tôm hùm này đều có một đôi càng lớn và đầy sức mạnh. Các loài tôm này sống ở biển trong điều kiện sống khắt khe với vùng biển ấm, lặng, ở các khe hoặc hang hốc dưới đáy biển và là một loại hải sản có giá trị, việc khai thác, nuôi trồng tôm hùm có vai quan trọng về kinh tế và thường là một trong những mặt hàng có lợi nhuận nhất trong khu vực ven biển ở các quốc gia có phân bố loài này. Điển hình và quen thuộc nhất chính là tôm hùm Alaska
2. Tôm rồng
Tôm rồng hay còn gọi tôm hùm không càng, tôm hùm gai (danh pháp khoa học: Palinuridae) là một họ tôm ở biển gồm có hơn 60 loài trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Tên gọi tôm rồng đôi khi dễ nhầm lẫn với loại tôm hùm đất, cũng được gọi là tôm rồng. Các loài tôm hùm có ở vùng biển Việt Nam thuộc họ này. Đây là loài tôm có giá trị kinh tế cao và được khai thác nhiều cùng với loài họ hàng của nó là tôm hùm càng.
Ở Việt Nam, tôm hùm gồm có khoảng 7 loại như hùm bông, hùm đá, hùm xanh, hùm sỏi, hùm ma, hùm sen, hùm bùn…nhưng được đánh bắt phổ biến nhất và nuôi thương phẩm thì chỉ có 5 loại:
– Tôm hùm bông (hùm sao) – có kích thước lớn nhất, tăng trưởng nhanh nhất và có giá trị cao nhất trong các loài tôm rồng
– Tôm hùm tre (còn gọi là tôm kẹt, tôm hùm baby) – kích thước phổ biến từ 3-5 con/kg – vỏ mỏng, thịt chắc và nhiều, ăn ngon ngang ngửa tôm hùm bông
– Tôm hùm đỏ (còn gọi là tôm hùm sỏi)
– Tôm hùm sen
– Tôm hùm xanh
Tôm hùm là loại động vật ăn tạp, trong tự nhiên chúng ăn chủ yếu là các loại động vật như: cá, tôm, cua ghẹ, cầu gai, giáp xác nhỏ, nhuyễn thể,…ngoài ra còn ăn các loại thực vật như rong rêu., chúng thường có tập tính bắt mồi tích cực vào ban đêm và tờ mờ sáng. Tuỳ vào giai đoạn phát triển mà nhu cầu dinh dưỡng khác nhau, tôm càng nhỏ thì nhu cầu dinh dưỡng càng cao, ở giai đoạn trước lột xác 2-4 ngày tôm ăn rất mạnh, giai đoạn lột xác tôm sẽ ăn chậm lại.
Tôm hùm rất có giá trị dinh dưỡng. Thịt tôm hùm có chứa rất ít chất béo và carbohydrate trong khi hàm lượng protein lại cao. Trong thực tế, nó có ít chất béo bão hòa, lượng calo và cholesterol hơn so với nhiều loại thịt khác đang sử dụng hàng ngày như thịt heo, thịt bò, thịt gà, trứng,…Tính trung bình, thịt tôm hùm có ít hơn 100 calo trong mỗi khẩu phần (89% calo từ protein), tôm hùm đại dương là một sự lựa chọn tốt cho những chế độ ăn uống.
Thịt chúng có chứa nhiều axit béo Omega-3, theo Hiệp hội tim mạch Mỹ (AHA) thì axit béo Omega-3 có tác dụng kìm hãm và làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Hầu hết lượng calo trong thịt của tôm hùm là bắt nguồn từ protein, do đó nó có thể đáp ứng tốt cho một chế độ ăn uống linh hoạt (tức là phù hợp với tất cả mọi người). Ngoài ra do tôm hùm có thể được chế biến thành rất nhiều dạng món ăn: nướng, hấp, nấu cháo, gỏi,..nên luôn đảm bảo được sự cân bằng về năng lượng trong chế độ dinh dưỡng.
Chính vì đẳng cấp dinh dưỡng nên tôm hùm đã được xem là vua của các loài hải sản, là đặc sản của vùng biển vào mùa đông lúc tôm hùm còn nặng những tảng gạch son. Gạch đóng thành một dọc vàng ươm ở sống lưng con tôm, gạch là một mảng lớn đóng nơi đầu tôm. Tôm hùm là món ăn thường được bán tại các nhà hàng. Ở Việt Nam, tôm hùm chủ yếu xuất bán sang Trung Quốc.
Ở Việt Nam, tôm hùm phân bố tự nhiên và được nuôi nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung như Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa… Mùa khai thác con giống chủ yếu từ tháng 11 năm trước đến tháng 4, 5 năm sau.