Tôm mũ ni đen nhung (gọi tắt là mũ ni đen) đứng vị trí thứ nhì trong họ mũ ni, chỉ sau ni đỏ.
Tên khoa học của mũ ni đen là Parribacus antarcticus, thuộc họ Scyllaridae, tên tiếng Anh phổ biến hơn là “sculptured mitten lobster” hoặc “sculptured slipper lobster”, dịch nôm na là loài tôm hình chiếc dép có vỏ như tác phẩm điêu khắc chạm trổ.
Mũ ni đen có thể đạt chiều dài lên đến 20cm đối với con đực, nhưng kích thước phổ biến từ 12 đến 15cm. Lớp vỏ mũ ni đen có nền màu vàng nhạt, điểm lốm đốm chấm nâu và đen, trong khi miệng và mép của ổ mắt có màu tía. Chúng có thân hình khá dẹt, với bề mặt lưng được bao phủ bởi các u lồi lên và lông ngắn.
Mũ ni đen là loài ăn đêm, ban ngày chúng thường núp trong các khe đá hoặc phía dưới các tấm đá phiến lớn và rìa đá ở khu vực có nhiều san hô, ẩn mình theo từng nhóm nhỏ. Chúng bơi lùi rất nhanh bằng cách dùng đuôi. Mũ ni đen có thể ăn tất cả các sinh vật nhỏ hơn trong tầm ngắm của chúng như các loại sò, tôm cua nhỏ, nhum biển (cầu gai) và các loại rong biển. Sắc tố đen của nó cũng tương tự ni đỏ, có được là nhờ tổng hợp từ các nguồn thức ăn đặc biệt.
Chúng phân bố dọc bờ phía tây Đại Tây Dương, từ Florida đến phía bắc Brazil; dọc duyên hải phía nam Châu Phi trong Ấn Độ Dương, ở Hawaii và nhóm các đảo phía nam Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, tôm mũ ni đen được tìm thấy tại Khánh Hoà, đảo Phú Quý – Bình Thuận, Côn Đảo và Phú Quốc.
Mũ ni đen được đánh giá là loài hải sản quý hiếm tương tự mũ ni đỏ với phẩm chất thịt thơm ngon, hàm lượng chất béo và cholesterol thấp, dồi dào khoáng vi lượng và các vitamin. Chính vì vậy, chúng là món ăn cao cấp thường chỉ xuất hiện trong các bữa tiệc sang trọng và các nhà hàng quán ăn chuyên bán hải sản cao cấp.
Có thể chế biến tôm mũ ni đen thành các món ngon như hấp bia, nướng phô mai, nướng mỡ hành, cháy tỏi…